Khiêm vương Mạc Kính Điển là người văn võ song toàn, một tài năng cả về quân sự lẫn chính trị nên đã hai lần được chọn làm phụ chính cho hai đời vua nhà Mạc. Năm 1580, sau khi ông mất, nhà Mạc không có ai thay thế xứng đáng vai trò của ông nên năm 1592 bị Lê – Trịnh đánh bại.
Sau khi nhà Mạc cáo chung, năm 1593 người con gái của ông là quận chúa Mạc Thị Giai 15 tuổi cùng em gái Mạc Thị Lâu rời bỏ quê hương vào Đàng Trong tìm người chú ruột là Mạc Cảnh Huống để nương tựa.
Ông Mạc Cảnh Huống vừa là em rể vừa là thống binh thân tín giúp Nguyễn Hoàng hoạch định chiến lược quân sự đang trong buổi đầu dựng nghiệp trên vùng đất mới. Được bà Nguyễn Thị Ngọc Dương, vợ của chú ruột Mạc Cảnh Huống, vừa là em gái của phu nhân Đoan quốc công Nguyễn Hoàng, vừa là dì ruột, hết mực thương yêu tiến cử, Mạc Thị Giai trở thành chính thất của Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên.
Sử triều Nguyễn ca ngợi Bà: ”Hậu tính thông mẫn dịu dàng, lời nói cử chỉ đều có khuôn phép, Chúa rất yêu thương”, nên được ban quốc tính họ Nguyễn. Bà sinh hạ tám người con, năm hoàng tử là Khánh quận công Trấn thủ Quảng Nam Nguyễn Phúc Kỳ; Thần tông Hiếu Chiêu hoàng đế Nguyễn Phúc Lan; Nguyễn Phúc Trung Chưởng dinh (ông này sau mưu phản nghịch nên bị giết và tước tông tịch); Nguyễn Phúc An Phó tướng Trấn thủ Trấn Biên; Nguyễn Phúc Nghĩa (chết sớm). Ba công chúa là Nguyễn Phúc Ngọc Liên, gả cho Trấn thủ Trấn Biên Mạc Cảnh Vinh; Công chúa Ngọc Vạn gả cho Quốc vương Chân Lạp là Chey Chetta 2; Nguyễn Phúc Ngọc Khoa gả cho Quốc vương Chiêm Thành là Po Rome.
Hoàng hậu Mạc Thị Giai xuất thân từ hoàng cung triều Mạc, được tiếp thu các phép tắc nên rất am hiểu nghệ thuật ẩm thực, giỏi giao tiếp. Khi vào Đàng Trong, Bà không chỉ là người hướng nghiệp cho các đầu bếp trong phủ Chúa mà còn có công truyền bá cho dân gian các món ẩm thực lợi ích sức khỏe, tăng cường dinh dưỡng, phòng chống bệnh tật, nên sau này dân chúng nhiều nơi ở vùng duyên hải Nam Trung Bộ tôn là Bà Tổ bếp hay Bà Tổ của nghề nấu ăn phương Nam.
Hoàng hậu Mạc Thị Giai qua đời ngày mồng 9 tháng 11 năm Mậu Ngọ tức ngày 12/12/1630, hưởng dương 52 tuổi, khi đang sống cùng người con trai trưởng Nguyễn Phúc Kỳ, lúc đó là Trấn thủ dinh Quảng Nam. Bà được an táng tại gò Hàm Rồng, nay thuộc làng Chiêm Sơn, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Năm Gia Long thứ 5 (1806), lăng mộ Bà được đặt tên là Vĩnh Diễn lăng, dân gian thường gọi Lăng Dưới..
Lăng mộ tọa lạc trên khuôn viên có diện tích tám mẫu bốn sào năm tấc, ứng với lô đất số 1220 theo địa bộ xã Duy Trinh. Lăng được xây theo hướng Đông Bắc, có hai vòng thành hình chữ nhật bao bọc, tường thành xây bằng đá bazan. Thành ngoài có chiều dài 34,8m, chiều ngang 29m, dày 0,70m, cao 1,60m. Cổng rộng 4,2 m. Bình phong ngoài cao 2,60m. Thành nội có chiều dài 21m, chiều ngang 18m, dày 0,70m, cao 1,1m. Bình phong thành trong cao 1,50m, đế cao 0,58m, trụ cao1,50m, dày 1m. Bình phong trước cổng cao 1,63m, đế rộng 56cm, cao 0,50m. Ngoài hai trụ cổng của ngôi lăng mộ, ở bốn góc của hai vòng thành đều có bốn trụ biểu hình vuông cao.
Ở giữa lăng là phần mộ chí hình khối chữ nhật, xây theo mô thức cung đình tương đối đơn giản, trên mộ đắp tạo bốn mái hai lớp theo kiểu chồng diêm, đuôi mái phần trên được vuốt cong tạo thành bờ hồi như hình chữ bát. Xung quanh mộ tô các đường chỉ phân ô hộc để tối sáng phân minh tránh cảm giác trơn tru, đơn điệu.
Theo hồi cố và các tài liệu xưa ghi lại, ở khoảng giữa khu vực của lăng mộ bà Mạc Thị Giai và lăng mộ bà Đoàn Quý Phi, Chúa Nguyễn đã cho xây Chùa Vua để cùng thờ hai bà hoàng hậu và công chúa Ngọc Dung. Vườn chùa có diện tích hơn tám sào, có vườn cây bao quanh là nơi đóng quân của đội cận vệ hoàng gia hơn 50 người thường xuyên túc trực bảo vệ và thờ cúng.
Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên và Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan đã cấp thêm tư điền hơn chín mẫu ở Duy Xuyên và Quế Sơn làm hương hỏa để con cháu chăm lo hương khói cho hoàng hậu họ Mạc và hoàng hậu họ Đoàn.
Cùng các lăng mộ cổ xưa thời Chúa Nguyễn ở thế kỷ 17 trên đất Duy Xuyên, lăng mộ bà Mạc Thị Giai có giá trị đặc biệt về mặt lịch sử, phản ánh buổi đầu mở cõi của các Chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Từ lăng mộ có thể cảm nhận được vai trò, công lao đóng góp của bà Mạc Thị Giai đối với sự nghiệp chung của dân tộc. Trong số năm người con trai của bà, người con đầu là Nguyễn Phúc Kỳ rất tài năng. Ông là vị Tổng trấn thứ ba của Quảng Nam dinh. Nhờ tài thao lược, nội trị của ông, xứ Quảng ổn định chính trị, xã hội, kinh tế phát triển tột bậc. Với chính sách mở cửa, trong đối ngoại, ông thân thiện với các nhà truyền giáo, sử dụng nhân tài đưa thương cảng Hội An trở thành nơi đô hội hấp dẫn thương nhân các nước tới buôn bán. Về mở mang xã tắc, đích thân ông cầm quân đánh bại cuộc tấn công đầu tiên của chúa Trịnh ở phía Bắc và cùng Mạc Cảnh Vinh chinh phạt Chiêm Thành, bảo vệ vững chắc biên giới phía Nam. Rất tiếc, dù được phong thế tử nhưng ông đoản thọ, để lại việc kế nghiệp cho em trai Nguyễn Phước Lan.
Hai người con trai của bà cùng ba người con gái đều góp phần làm rạng rỡ tổ tông, giúp cho xứ Quảng phồn vinh. Các thế hệ sau mỗi khi nhắc đến họ đều tưởng nhớ công lao sinh thành của Bà đã tạo nên những nhân tài cho đất nước. Mặt khác, nhắc đến tên tuổi của Bà là hồi tưởng đến mối dây liên kết giữa những nhân vật tài năng gắn với những biến động của lịch sử thời ấy từ nhà Mạc, vua Lê, chúa Trịnh đến nhà Nguyễn.
Lăng mộ bà Mạc Thị Giai được kiến tạo đơn giản phù hợp với hoàn cảnh lịch sử buổi đầu mở nước của Chúa Nguyễn nhưng lại hoành tráng giữa một không gian gò Hàm Rồng thuộc thôn Chiêm Sơn, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên hàm chứa đầy yếu tố phong thủy, có tiền hậu, tả hữu đăng đối phối hợp tạo nên vững chắc bề thế. Cảnh sắc nơi đây vừa hài hoà, vừa thơ mộng, đạt tiêu chí thế đất Tứ tượng (Huyền vũ, Thanh long, Bạch hổ, Chu tước). Chắc chắn thời xưa, khi an táng mộ phần, thế tử Nguyễn Phúc Kỳ đã cho người giỏi thuật phong thủy tìm kiếm và chọn lựa nơi mai táng mẫu hậu đạt các yếu tố hội tụ sinh khí, cát tường phú quý, phúc thọ bình yên, hậu thế ngôi báu vững vàng.
Lăng mộ bà Mạc Thị Giai đi cùng lịch sử chính thống và cả những câu chuyện thuộc về dã sử truyền lại cho đời sau nhiều bài học về đối nhân xử thế, nuôi dưỡng hiền tài, gắn bó với nhân dân, coi mọi người không kể sang hèn đều thân thiết, tin yêu, bằng hữu. Lăng mộ bà được Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam, ngày 15/2/2005, ban hành Quyết định số 436/QĐ/UBND/2005, xếp hạng di tích cấp tỉnh. Những yếu tố trên sẽ hợp thành các giá trị văn hóa để phát triển du lịch.
Lăng mộ Bà là một di tích du lịch văn hóa hấp dẫn. Khách đến viếng Bà để hình dung về một thời lịch sử, nuôi dưỡng ý thức tự hào về tổ tiên, với dân tộc, thấm sâu yếu tố nhân văn trong cuộc sống.
English